Microaggression - vi hiếp
Microaggression - vi hiếp
“Ông ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt.” “Anh là người Việt mà nói tiếng Anh hay ghê!” Chúng ta biết rằng những câu nói như thế là 'khen đểu', nhưng làm sao định danh hành vi đó? Giới tâm lí học có một cái tên cho hành vi đó: ‘microaggression’ (và tôi tạm dịch là 'vi hiếp', hay ăn hiếp tinh vi).
Xem thêm:
Vi hiếp là gì?
Chúng ta, nhứt là những ai sống ở nước ngoài, đều biết và cảm nhận thế nào là kì thị chủng tộc. Người Việt ở Úc có lẽ không còn xa lạ gì với những câu hét qua đường kiểu như "Cút về xứ sở của mày đi!" Hay có những nhận xét từ giới chánh trị gia như "Bọn Á châu xâm lăng vào các đại học do cha ông chúng ta tạo nên, chúng lấy hết công việc của con em chúng ta", hay "Bọn Ả Rập toàn là đám ăn bám và ăn trộm", v.v. Đó là những hình thức kì thị gọi là 'overt' hay công khai, không giấu diếm. Đó cũng là hình thức kì thị của người ít chữ, ít học thức, hay nói chung là giai cấp lao động.
Nhưng còn có một loại kì thị khác tinh vi hơn của nhóm nhiều chữ và có học, mà tiếng Anh gọi là 'covert' hay ngầm. Có lần tôi đi trên một chuyến xe điện, và thấy một người đàn ông da trắng đang đọc báo; đến một trạm kia, một phụ nữ đội burqa ngồi vào ghế bên cạnh ông hành khách kia. Ông lặng lẽ đứng lên rồi khỏi ghế và tìm một ghế trống khác để an toạ. Đa số hành khách không để ý, nhưng tôi thấy hành vi của ông ấy mang tính kì thị. Nhưng là loại kì thị không dễ nhận ra, bởi vì về lí lẽ ông ấy có quyền chọn cái ghế trống để đọc báo.
Có lần tôi từng kể về một trải nghiệm khi mới tới Mĩ. Tôi thi lái xe để có bằng lái trên nước Mĩ, và tôi đậu một cách dễ dàng. Người làm thủ tục cho tôi nói "Anh nói tiếng Anh rất thạo"; tôi trả lời rằng "Tôi đến từ Úc mà." Anh chàng kia (da đen) tỏ ra kinh ngạc "Ủa, Úc nói tiếng Anh à? Mà, anh đến từ đâu?" Cái câu đó, nhứt là câu 'anh đến từ đâu' là một cách không công nhận tôi là người Úc, mà có lẽ là gốc Á châu. Đối với nhiều người, đó là một cảm nhận bình thường, nhưng với người có suy nghĩ thì đó là một câu nói với hàm ý "You do NOT belong here" (anh không thuộc xã hội này). Đó là một hành vi kì thị, nhưng rất tinh vi.
Hoá ra, giới tâm lí học có một chữ cho hành vi đó: microaggression (vi hiếp). Tôi xem microaggression là một dạng bully - ăn hiếp, bắt nạt. Dĩ nhiên là ăn hiếp ở qui mô nhỏ và tinh vi. Theo giới tâm lí học, microaggression được định nghĩa là những hành vi (như cách nói, cách dùng chữ, cách đặt câu hỏi, nhận xét, v.v) vô tình hay cố ý chuyển tải một thông điệp hay cái nhìn tiêu cực về một cá nhân thuộc một nhóm thiểu số.
Chiếu theo định nghĩa trên chúng ta thấy hàng ngày có nhiều hành vi microaggression lắm. Khi đứa cháu tôi sanh ra và lớn lên ở Mĩ được một ông Mĩ trắng khen là nói tiếng Anh như người Mĩ, thì đó chưa chắc là một lời khen, mà có thể hàm ý ngược lại với giả định rằng bọn Á châu không thể nói tiếng Anh như người Mĩ. Khi ông hành khách người Úc (đề cập trên) lặng lẽ rời ghế ngồi vì có người Hồi gíao ngồi cạnh ông, đó là microaggression. Như vậy, microaggression có thể biện hiện không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành vi không lời.
Chữ 'microaggression' chỉ mới được ra đời từ thập niên 1970s, và 'cha đẻ' của nó là nhà tâm lí học Chester Pierce (ĐH Harvard). Pierce dùng chữ này để mô tả những cãi cọ giữa sinh viên da đen và da trắng khi họ dùng những từ ngữ không hẳn là miệt thị mà là ăn hiếp một cách ngấm ngầm. Điều quan trọng cần lưu ý là người microaggression có thể không phải cố ý, mà chỉ là vô tình. Sự vô tình đó xuất phát từ sự thiên vị hay những ý tưởng mà họ có trong đầu về một nhóm người nào đó. Nó cũng giống như 'trông mặt mà bắt hình dong', nhưng họ không nói thẳng ra như thế mà nói một cách ... tinh tế.
Các hành vi vi hiếp
Tuy nhiên, người mở rộng lí thuyết và lí giải chi tiết về microaggression là nhà tâm lí học gốc Hoa Derald Sue (ĐH Columbia). Chính Sue là người làm cho khái niệm microaggression trở nên phổ biến và công chúng dần dần biết đến những hành vi microaggression. Theo Sue, hành vi microaggressions có thể bao gồm:
• đối xử với người khác như là một công dân hạng hai chỉ vì người đó thuốc sắc tộc thiểu số, hay giới tính, hay tôn giáo;
• khen một người nào đó sanh ra và lớn lên ở Mĩ nói tiếng Anh giỏi chỉ vì người đó không phải là người da trắng;
• nói với người ốm / gầy là nên ăn nhiều vào;
• giả định rằng người Á châu là giỏi toán và khoa học;
• dùng đại danh từ nam/nữ cho người chuyển giới.
Triển khai cụ thể, những hành vi đó có thể là những ví dụ sau đây mà tôi trích lại từ các trang blog tâm lí học và bài báo khoa học.
• Một bệnh nhân đang chờ được khám bệnh. Một người phụ nữ bước vào phòng, và bệnh nhân giả định rằng người phụ nữ đó là một y tá. Cái thiên kiến ở đây là suy nghĩ rằng phụ nữ chỉ làm y tá, phụ tá cho bác sĩ; còn bác sĩ phải là nam giới!
• Khi một người Mĩ da trắng gặp một người thuộc sắc tộc thiểu số (như Việt Nam chẳng hạn), và buông ra câu hỏi "Anh đến từ đâu?" Giả định là người này không sanh ra ở Mĩ, không thuộc về Mĩ.
• Một người Úc da trắng đang đi trên đường gặp một người da đen đi ngược lại, người da trắng tìm cách chu yển sang con đường khác. Có lẽ vì người da trắng sợ, do giả định rằng người da đen là nguy hiểm, tội phạm.
• Một người phụ nữ lên tiếng trong buổi họp, và sau đó được các đồng nghiệp nam giới nhận xét rằng chị ấy là "too assertive." Giả định là phụ nữ phải ngoan, hiền, nhù mị, không tỏ ra hung hãn.
• Khi một người Úc gốc Việt sanh ra ở Úc được một người Úc da trắng khen là "Anh nói tiếng Anh thông thạo quá". Đó không hẳn là một lời khen, mà giả định rằng đã là dân da vàng thì không thể nói tiếng Anh giỏi.
Như chúng ta thấy qua những ví dụ trên, microaggression xảy ra có lẽ hàng ngày, và có khi chính chúng ta cũng là người tạo ra microaggression. Đó là những câu nói, những chữ có âm điệu hay hàm ý xúc phạm, mỉa mai.
Chúng ta phải làm gì với hành vi vi hiếp?
Giới tâm lí học có nhiều lời khuyên. Trước hết, nếu nhận ra đó là một microaggression, thì bạn có thể hỏi người nói câu đó giải thích thêm ý của họ là gì (Can you please clarify what you mean by saying that). Cách thứ hai là nói cho người đó biết rằng hành vi hay cách nói đó hàm ý một giả định không thật. Cũng có thể nói thẳng rằng bạn không 'appreciate' cách nói đó vì nó thể hiện microaggression (có thể người nói không biết chữ này, nên phải giải thích cho họ biết).
Hi vọng rằng cái note này giúp cho các bạn hiểu hơn về hành vi hàng ngày của chúng ta -- của các bạn và cả tôi. Quay lại câu nói “Ông ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt” đương nhiên là một lời khen đểu (vì giả định rằng đảng viên phải là xấu), đó là một microaggression, một sự kì thị tinh vi.
Thôi thì chúng ta nên đối xử tử tế với nhau hơn thay vì dùng những câu chữ và hành vi mang tính vi hiếp như thế. Làm được như thế thì năng lượng tích cực và thiện lành sẽ lan toả chung quanh thôi.
Comments
Post a Comment